RCO_026 26 O old testament Kinh Thánh Cựu Ước bible poetic/wisdom books division Giáo huấn - Khôn ngoan (Kinh Thánh Cựu Ước) Sách Diễm Ca Giáo huấn - Khôn ngoan (Kinh Thánh Cựu Ước) web https://huggingface.co/datasets/v-bible/bible/tree/main/books/bible/versions/ktcgkpv.org/kt2011/dc ktcgkpv.org true Việt Trở lại, trở lại đi, này cô gái Su-la-mi hỡi, trở lại, trở lại đi, cho chúng tôi nhìn ngắm dung nhan nàng ! Cô gái Su-la-mi múa nhảy giữa hai bè xướng ca đối đáp : các bạn nhìn ngắm mà làm chi ? Đẹp chừng nào, công nương hỡi, gót sen thả nhẹ, đôi hài xinh xinh ! Lưng ong uốn mềm như chiếc vòng trang sức bàn tay nghệ sĩ khéo tạc nên. Rốn em tựa chung rượu tròn chẳng bao giờ cạn. Bụng em như lúa mì vun lên đầy ắp, hoa huệ bao quanh. Bộ ngực khác nào cặp nai tơ, cặp nai sinh đôi của nai mẹ. Cổ em giống như ngọn tháp ngà. Đôi mắt như mặt hồ Khét-bôn bên cạnh cổng thành Bát Ráp-bim. Mũi em tựa Li-băng ngọn tháp nhìn về hướng Đa-mát. Trên thân mình, đầu em đỉnh núi Các-men, tóc em một giải lụa hồng, bềnh bồng sóng nước, xiềng xích quân vương. Em xinh đẹp biết bao, kiều diễm biết chừng nào, tình yêu ơi, em làm anh say đắm ! Dáng em, thân chà là, bộ ngực em, chùm quả. Anh nhủ thầm : thân chà là, mình sẽ trèo lên, trái thơm ngon, mình sẽ tận hưởng. Ước chi bộ ngực em là chùm nho chín mọng, hơi thở em thoang thoảng mùi táo thơm, và miệng em phảng phất men rượu nồng. Rượu nồng thoả mãn người tôi yêu, êm êm chảy tới tìm đôi môi thiếp ngủ. Tôi thuộc trọn về người tôi yêu, cho lòng chàng cháy rực lửa thèm muốn. Này người yêu của em, chúng mình ra cánh đồng, anh nhé, rồi ghé thôn làng, đêm nay mình nghỉ lại. Sáng tinh mơ, mình sẽ đến vườn nho xem nhánh nho đã đâm chồi, nụ nho đã hé mở, và hoa lựu đã nở rồi hay chưa. Bấy giờ em sẽ tặng chàng muôn ngàn âu yếm, muôn ngàn yêu thương. Ngải yêu đã toả hương ngào ngạt ; và trước cửa nhà mình, bao quả thơm trái tốt từ đầu đến cuối mùa, em dành hết cho anh, hỡi người em yêu dấu ! Câu này cường điệu giá trị của bản thân NÀNG, làm câu dẫn nhập vào phần mô tả sắc đẹp thêm một lần nữa. NÀNG ở đây mang tên *cô gái Su-la-mi* -gốc từ là “*sa-lom*” (*bình an*)-, không nên lẫn lộn với cô gái người Su-nam của vua Đa-vít về già (1 V 1,3). Vậy CHÀNG là “*Sa-lô-môn*” và NÀNG là “*Su-la-mi*” : xét về danh hiệu, họ thật là xứng đôi vừa lứa ! English: Shulam | French: Sulamite | Latin: Sulamitis | Origin: שׁוּלַמִית | Vietnamese: Su-la-mi -- Dc 7,1 Câu hỏi này có thể là của THI NHÂN. Vây quanh một cô gái đang múa vũ điệu dân gian của người Do-thái, là hai nhóm người : có thể là *hai bè xướng ca*, có thể là “hai hàng người cùng múa”. English: Shulam | French: Sulamite | Latin: Sulamitis | Origin: שׁוּלַמִית | Vietnamese: Su-la-mi -- Dc 7,1 X. 1,4+ và 1,7+. *Rượu* và hoa *huệ* : x. 1,2+ và 2,16+. Dc 4,5 X. 4,4+. English: Heshbon | French: Heshbôn | Latin: Hesebon | Origin: חֶשְׁבּוֹן | Vietnamese: Khét-bôn 1 -- thành của vua Xi-khôn người E-mô-ri, Ds 21,25-30 English: Bath - Rabbim | French: Populeuse | Latin: Bathrabbim | Origin: בַּת־רַבִּים | Vietnamese: Bát Ráp-bim -- Dc 7,5 English: Libanon | French: Liban | Latin: Libanus | Origin: לְּבָנוֹן | Vietnamese: Li-băng -- Gs 9,1 ; Tl 3,3 Cả hai phần tình ca của CHÀNG (6,4-10 và 7,2-10) đều dùng những nét đẹp của đất nước Pa-lét-tin để nói lên sắc đẹp của người yêu. Thật ra, những *ngọn tháp, mặt hồ, cổng thành* ở đây đều rất mơ hồ, gợi ý về một sắc đẹp có tính chất không tưởng, lý tưởng, hơn là khoa học, lịch sử. X. “cõi thiên thai”, “làn thu ba” trong thi ca Việt Nam, và “bồng lai cực bắc” trong Tv 48,3. English: Damascus | French: Damas | Latin: Damas | Origin: Δαμασκος | Vietnamese: Đa-mát 1 -- Nơi ông Phao-lô được hoán cải, Cv 9,1-9 “Như núi Thái Sơn”, trong văn chương Trung Hoa và Việt Nam, chỉ về tính chất cao cả, vô biên, còn *tựa đỉnh núi Các-men* của văn chương Híp-ri thì chỉ về tính kiên cố, vì núi Các-men là mũi nhọn duy nhất nhô ra Địa Trung Hải, chống chọi với sóng gió. Vả lại miền núi ấy có thảo mộc phong phú (x. Is 35,2), tạo nên hình ảnh mái tóc đẹp của NÀNG (c. 6cd) ; *mái tóc* : ds là *cái rủ xuống từ đỉnh đầu*. English: Carmel | French: Karmélite | Latin: Carmélites | Origin: כַּרְמְלִי | Vietnamese: Các-men 1 -- cư dân ở Các-men, miền Giu-đa, -- 1 Sm 27,3 ; 1 Sb 3,1 *Quân vương* đây là chính CHÀNG : x. 1,4+. *Tình yêu ơi* : tác giả nhân cách hoá tình yêu ; cũng có thể nói NÀNG là hiện thân của tình yêu. – *Em làm anh say đắm* : diễn dịch một từ Híp-ri duy nhất, ds là *đắm chìm trong khoái cảm*. *Chà là*, từ Híp-ri là “*ta-ma*”, biểu tượng cho “khách má hồng”. Trong Kinh Thánh, có ba người đàn bà tên là Ta-ma : St 38,6 ; 2 Sm 13,1 ; 14,27 ; hai xuất xứ cuối ghi rõ đó là đàn bà đẹp. Cả đoạn cc. 7-11 rất đậm màu sắc dục. *Táo* và *rượu* : x. 1,2+ và 2,3+. Sau khi tiếp lời CHÀNG, hiệp thông trong một niềm say đắm, giọng điệu rất ư phong tình (c.10bc), NÀNG dùng lại từ *thèm muốn* của St 3,16, nhưng lại đảo ngược tư tưởng của câu này. Theo St 3,16, Thiên Chúa “trừng phạt” cặp nam nữ nguyên thuỷ bằng cách khiến cho người nữ “thèm muốn” người nam và người nam “thống trị” người nữ ; ở đây, không còn có vấn đề ai thống trị ai, nhưng một tương quan mới lại xuất hiện : người nam *thèm muốn* người nữ, và nàng *thuộc trọn về chàng*, một cách an lành, đằm thắm. St 3,16 Dc 6,11 *Ngải yêu* : tên trong các tự điển là “ngải sâm” hoặc “khoai ma”. Nhưng vì loại cây này được coi như có tác dụng kích dục và làm tăng tính phồn thực (x. St 30,14-16), và cũng vì tên Híp-ri của cây này có gốc từ dịch nghĩa là *cưng*, nên đã chọn dùng từ *ngải yêu* của bản dịch Nguyễn Thế Thuấn. Vế này cho thấy NÀNG “ra hiệu” thật rõ ràng, củng cố mạch ý của hai vế trước. *Từ đầu đến cuối mùa* : có bản dịch là *mới và cũ*. Dịch theo nghĩa nào cũng được, vì trong ngôn ngữ Híp-ri, hai thái cực chỉ toàn bộ sự vật nằm giữa hai thái cực đó. Dùng từ như thế là một cách nhấn mạnh hai vế trên và dưới : tất cả những *quả thơm trái tốt*, NÀNG *dành hết* cho CHÀNG. ĐỒNG CA CHÀNG NÀNG Khét-bôn Bát Ráp-bim Li-băng Đa-mát Các-men