RCO_021 21 O old testament Kinh Thánh Cựu Ước bible historical books division Lịch Sử (Kinh Thánh Cựu Ước) Sách Ma-ca-bê 2 Lịch Sử (Kinh Thánh Cựu Ước) web https://huggingface.co/datasets/v-bible/bible/tree/main/books/bible/versions/ktcgkpv.org/kt2011/2 mcb ktcgkpv.org true Việt Trong khi Thành Thánh được thái bình thịnh trị và Lề Luật thi hành nghiêm túc, nhờ thượng tế Ô-ni-a là người đạo hạnh và ghê tởm sự dữ, thì cả các vua cũng tôn trọng Nơi Thánh và dâng nhiều lễ vật quý giá để làm cho đền thờ thêm rực rỡ vinh quang, đến độ vua Xê-lêu-côA-xi-a đã lấy tài sản riêng mà đài thọ mọi khoản chi phí về việc tế tự. Nhưng có một người tên là Si-môn, thuộc chi tộc Bin-ga, được đặt làm quản lý Đền Thờ ; ông bất đồng ý kiến với thượng tế về việc quản lý thị trường của thành đô. Vì không thể thắng thượng tế Ô-ni-a, nên ông đã đến gặp A-pô-lô-ni-ô, quê ở Thác-xê-ô, bấy giờ đang làm tổng trấn vùng Coi-lê Xy-ri và Phê-ni-xi, và đã báo cáo với ông A-pô-lô-ni-ô rằng kho tàng ở Giê-ru-sa-lem đầy dẫy của cải, nhiều đến nỗi không tài nào đếm hết số lượng tiền bạc to lớn ấy, mà số bạc ấy lại không thuộc về ngân quỹ dành cho tế tự, nên có thể buộc phải đặt tất cả của cải ấy dưới quyền vua. Vậy tướng A-pô-lô-ni-ô đi gặp nhà vua và cho vua biết về của cải người ta đã báo cho ông. Vua chọn ông Hê-li-ô-đô-rô đang làm tể tướng, và sai ông đi mang theo mệnh lệnh phải tịch thu những của cải nói trên. Lập tức ông Hê-li-ô-đô-rô lên đường, bề ngoài là đi thanh tra các thành thuộc vùng Coi-lê Xy-ri và Phê-ni-xi, nhưng kỳ thực là thi hành ý định của vua. Đến Giê-ru-sa-lem, ông được thượng tế của thành phố tiếp đón thân tình. Ông cho thượng tế biết chuyện người ta đã tiết lộ và nói rõ lý do khiến ông có mặt ở đây ; rồi ông hỏi sự việc đó có đúng như vậy không. Thượng tế trả lời rằng, không đúng như tên Si-môn vô đạo bày đặt, đó là tài sản của cô nhi quả phụ gửi, và một phần là của ông Hiếc-ca-nô, con ông Tô-bi-a, một nhân vật rất thế giá. Tất cả của cải ấy chỉ có gần mười hai ngàn ký bạc và sáu ngàn ký vàng. Vả lại, không bao giờ được phép làm thiệt hại những người vốn đặt tin tưởng vào Nơi Thánh, vào sự tôn nghiêm và bất khả xâm phạm của ngôi Đền Thờ được cả thế giới tôn kính. Nhưng dựa vào các chỉ dụ, ông Hê-li-ô-đô-rô nhất mực nói rằng phải đem tất cả của cải ấy xung vào kho tàng nhà vua. Vì thế vào ngày ấn định, ông tiến hành kiểm tra tất cả của cải ấy. Khắp cả thành, người ta lo sợ không ít. Các tư tế mặc lễ phục sấp mình trước bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, cầu khẩn Chúa Trời là Đấng ra luật về việc ký thác của cải, xin Người gìn giữ nguyên vẹn những của người ta ký thác. Ai nhìn thấy diện mạo của thượng tế, cũng phải đau lòng, vì dáng điệu và sắc mặt của ông biểu lộ nỗi lo sợ trong tâm hồn. Nỗi lo sợ bao trùm con người ông, thân xác ông run lẩy bẩy, khiến người ta thấy rõ tâm hồn ông đang bị nỗi thống khổ xâu xé. Từng đoàn người đổ xô ra khỏi nhà, đi cầu nguyện chung với nhau vì Nơi Thánh sắp bị ô nhục. Đàn bà mặc váy vải thô tràn ngập đường phố ; con gái chưa chồng người thì chạy tuốn ra cổng, kẻ thì lên tường thành, một số nghiêng mình ra cửa sổ. Tất cả đều giơ tay lên trời cầu nguyện. Thảm hại biết bao khi nhìn thấy đám đông cúi rạp mình xuống và thượng tế sợ hãi kinh hoàng. Vậy đang khi họ cầu xin Thiên Chúa toàn năng giữ gìn cẩn thận và nguyên vẹn những của người ta ký thác, thì ông Hê-li-ô-đô-rô tiến hành điều đã quyết định. Nhưng ngay tại nơi ông và quân cận vệ lúc ấy đang có mặt tại kho bạc, thì Đức Chúa là Vua cao cả và quyền năng biểu lộ vinh quang rực rỡ, đến nỗi những ai cả gan đi vào đều bị Thiên Chúa quyền năng đánh phạt, khiến cho phải thất điên bát đảo. Thật vậy, trước mặt chúng xuất hiện một con ngựa với một kỵ binh oai phong lẫm liệt, yên cương lộng lẫy ; con ngựa hung hăng nhảy chồm lên, đưa hai vó trước đánh ông Hê-li-ô-đô-rô ; còn kỵ binh trông như mặc áo giáp bằng vàng. Cùng lúc ấy, có hai thanh niên khác hiện ra với ông, sức mạnh phi thường, diện mạo tuấn tú, y phục bảnh bao ; mỗi người đứng một bên, đánh ông tới tấp, giáng cho nhiều đòn chí tử. Đột nhiên ông ngã quỵ xuống đất, mặt tối sầm lại ; người ta vực ông lên, đặt vào cáng. Vừa mới đây chính con người này đã đi vào kho bạc nói trên cùng với đám người tháp tùng và nhóm cận vệ thì giờ đây lại phải để cho người ta khiêng ra ngoài vì không thể tự cứu mình được. Ai cũng thấy rõ ràng đó là do quyền năng Thiên Chúa. Trong khi ông Hê-li-ô-đô-rô bị Thiên Chúa quyền năng quật ngã phải nằm bất động, nói chẳng ra lời, không còn chút hy vọng và vô phương cứu chữa, thì những người Do-thái chúc tụng Đức Chúa, Đấng đã làm cho Nơi Thánh được tràn ngập vinh quang. Chỉ mới đây Đền Thờ chìm đắm trong kinh hoàng náo động, thì bây giờ nhờ Đức Chúa toàn năng tỏ mình, lại tràn đầy vui sướng hân hoan. Một số bạn hữu ông Hê-li-ô-đô-rô vội vàng xin thượng tế Ô-ni-a khẩn cầu Đấng Tối Cao cứu sống người sắp trút hơi thở cuối cùng. Thượng tế Ô-ni-a sợ vua hồ nghi người Do-thái bày mưu hãm hại ông Hê-li-ô-đô-rô, nên đã dâng hy lễ cầu xin Thiên Chúa cứu chữa ông. Trong khi thượng tế dâng lễ xá tội, thì cũng hai người thanh niên ấy, mặc cùng một thứ y phục như trước, lại hiện ra, đứng gần ông và nói : Ngươi phải hết lòng tạ ơn thượng tế Ô-ni-a, vì quả thật nhờ thượng tế mà Đức Chúa đã gia ân cho ngươi được sống. Ngươi đã bị Chúa Trời quật ngã, thì chính ngươi phải công bố cho mọi người biết quyền năng cao cả của Thiên Chúa. Nói xong, họ biến mất. Sau khi dâng hy lễ kính Đức Chúa, ông Hê-li-ô-đô-rô đã long trọng thề hứa với Đấng đã ban lại cho ông sự sống. Ông chào từ biệt thượng tế Ô-ni-a, rồi cùng đoàn quân trở về với vua. Ông làm chứng cho mọi người về những việc Thiên Chúa cao cả đã làm, mà chính ông đã được nhìn thấy tận mắt. Vua hỏi ông Hê-li-ô-đô-rô xem ai là người xứng đáng để được cử đi Giê-ru-sa-lem một lần nữa. Ông trả lời : Nếu vua có kẻ thù, hay người nào âm mưu phản quốc, thì xin sai đến đó ; nếu nó còn sống sót mà trở về với vua thì cũng bị đánh tơi bời ; vì quả thật, quyền năng cao cả của Thiên Chúa bao trùm Nơi Thánh. Quả vậy, Đấng ngự trên trời luôn giữ gìn che chở nơi ấy ; Người sẽ quật ngã và tiêu diệt những ai đến đó làm điều ác. Đó là truyện ông Hê-li-ô-đô-rô và việc bảo vệ kho bạc. Các vua Pơ-tô-lê-mai II và Pơ-tô-lê-mai III của Ai-cập, cũng như vua An-ti-ô-khô III của Xy-ri đã dâng kính Đền Thờ nhiều lễ vật. English: Seleucus | French: Séleucus | Latin: Seleucus | Origin: Σελευκος | Vietnamese: Xê-lêu-cô -- 2 Mcb 3,3 ; 5,18 English: Asia | French: Asie | Latin: Asia | Origin: Ασια | Vietnamese: A-xi-a 1 -- tỉnh thuộc đế quốc Rô-ma, 2 Mcb 10,24 ; Cv 2,9 English: Shimon | French: Shimôn | Latin: Simon | Origin: שִׁימוֹן | Vietnamese: Si-môn 1 -- 1 Sb 4,20 *Bin-ga* theo bản La-tinh Cổ và bản Ác-mê-ni. *Ben-gia-min* theo bản Hy-lạp. Bin-ga là người đứng đầu một trong hai mươi bốn gia tộc tư tế (1 Sb 24,14 ; Nkm 12,5.18). English: Bilgah | French: Bilga | Latin: Belga | Origin: בִּלְגָּה | Vietnamese: Bin-ga -- 1 Sb 24,14 Si-môn lo việc quản lý tài chính của Đền Thờ. Có thể ông còn muốn nắm chức quản lý thị trường của thánh đô, nên mới bất đồng với thượng tế Ô-ni-a. English: Apollonius | French: Apollonius | Latin: Apollonius | Origin: Απολλωνιος | Vietnamese: A-pô-lô-ni-ô 1 -- tướng cai quản vùng Coi-lê Xy-ri và Phê-ni-xi, 2 Mcb 3,5 English: Thraseos | French: Thraséas | Latin: Tharsea | Origin: Θρασαιος | Vietnamese: Thác-xê-ô -- 2 Mcb 3,5 English: Apollonius | French: Apollonius | Latin: Apollonius | Origin: Απολλωνιος | Vietnamese: A-pô-lô-ni-ô 1 -- tướng cai quản vùng Coi-lê Xy-ri và Phê-ni-xi, 2 Mcb 3,5 Vùng này là một tỉnh lớn của Xê-lêu-xít, gồm Pa-lét-tin và gần như toàn bộ vùng đất của Xê-lêu-xít nằm giữa sông Êu-phơ-rát và Địa Trung Hải. English: Apollonius | French: Apollonius | Latin: Apollonius | Origin: Απολλωνιος | Vietnamese: A-pô-lô-ni-ô 1 -- tướng cai quản vùng Coi-lê Xy-ri và Phê-ni-xi, 2 Mcb 3,5 English: Apollonius | French: Apollonius | Latin: Apollonius | Origin: Απολλωνιος | Vietnamese: A-pô-lô-ni-ô 1 -- tướng cai quản vùng Coi-lê Xy-ri và Phê-ni-xi, 2 Mcb 3,5 English: Jerusalem | French: Jérusalem | Latin: Ierusalem | Origin: יְרוּשָׁלֵם | Vietnamese: Giê-ru-sa-lem -- kinh thành Thiên Chúa, thành vua Đa-vít... -- 1 V 8,44.48 English: Apollonius | French: Apollonius | Latin: Apollonius | Origin: Απολλωνιος | Vietnamese: A-pô-lô-ni-ô 1 -- tướng cai quản vùng Coi-lê Xy-ri và Phê-ni-xi, 2 Mcb 3,5 English: Heliodorus | French: Héliodore | Latin: Heliodorus | Origin: ՙΗλιοδωρος | Vietnamese: Hê-li-ô-đô-rô -- 2 Mcb 3,7-40 English: Heliodorus | French: Héliodore | Latin: Heliodorus | Origin: ՙΗλιοδωρος | Vietnamese: Hê-li-ô-đô-rô -- 2 Mcb 3,7-40 English: Apollonius | French: Apollonius | Latin: Apollonius | Origin: Απολλωνιος | Vietnamese: A-pô-lô-ni-ô 1 -- tướng cai quản vùng Coi-lê Xy-ri và Phê-ni-xi, 2 Mcb 3,5 English: Apollonius | French: Apollonius | Latin: Apollonius | Origin: Απολλωνιος | Vietnamese: A-pô-lô-ni-ô 1 -- tướng cai quản vùng Coi-lê Xy-ri và Phê-ni-xi, 2 Mcb 3,5 English: Jerusalem | French: Jérusalem | Latin: Ierusalem | Origin: יְרוּשָׁלֵם | Vietnamese: Giê-ru-sa-lem -- kinh thành Thiên Chúa, thành vua Đa-vít... -- 1 V 8,44.48 English: Shimon | French: Shimôn | Latin: Simon | Origin: שִׁימוֹן | Vietnamese: Si-môn 1 -- 1 Sb 4,20 English: Hyrcanus | French: Hyrcan | Latin: Hircanus | Origin: ՙΥρκανος | Vietnamese: Hiếc-ca-nô -- 2 Mcb 3,11 Hiếc-ca-nô là người thân Ai-cập, trú ẩn ở vùng bên kia sông Gio-đan, ngoài tầm kiểm soát của Xê-lêu-xít. Gia tộc Tô-bi-a là những người Do-thái giàu có và thế lực, cai trị vùng Am-ma-ni-tít từ thời Nơ-khe-mi-a. English: Tobias | French: Tobie | Latin: Tobia | Origin: Τωβιας | Vietnamese: Tô-bi-a 1 -- cha của ông Hiếc-ca-nô, 2 Mcb 3,11 ds : Bốn trăm nén bạc và hai trăm nén vàng. Một nén Hy-lạp nặng khoảng 26,2 Kg. Vàng đắt gấp mười lần bạc. Con số ở đây vượt qua sự thật ! English: Heliodorus | French: Héliodore | Latin: Heliodorus | Origin: ՙΗλιοδωρος | Vietnamese: Hê-li-ô-đô-rô -- 2 Mcb 3,7-40 English: Heliodorus | French: Héliodore | Latin: Heliodorus | Origin: ՙΗλιοδωρος | Vietnamese: Hê-li-ô-đô-rô -- 2 Mcb 3,7-40 *Chúa Tể* (*dunastes*) *của các thần* là một lối nói ít gặp. ds : *làm một sự hiển linh vĩ đại* (*epiphaneian megalên epoiêsen*). Câu chuyện sau đây (cc. 25-29) là do tác giả kết hợp hai nguồn khác nhau : 1. một tuấn mã và một kỵ binh xuất hiện trước mặt mọi người (cc. 24-25 và 29) ; 2. hai thanh niên mà chỉ mình Hê-li-ô-đô-rô thấy (cc. 26-28 và 33). Thiên Chúa đã can thiệp để bảo vệ Đền Thờ của Người. English: Heliodorus | French: Héliodore | Latin: Heliodorus | Origin: ՙΗλιοδωρος | Vietnamese: Hê-li-ô-đô-rô -- 2 Mcb 3,7-40 English: Heliodorus | French: Héliodore | Latin: Heliodorus | Origin: ՙΗλιοδωρος | Vietnamese: Hê-li-ô-đô-rô -- 2 Mcb 3,7-40 ds : *hiển linh* (*epiphainesthai*) x. 2,21 ; 3,24. English: Heliodorus | French: Héliodore | Latin: Heliodorus | Origin: ՙΗλιοδωρος | Vietnamese: Hê-li-ô-đô-rô -- 2 Mcb 3,7-40 Người Do-thái Hy hoá cũng như dân ngoại quen gọi Thiên Chúa là Đấng Tối Cao (*Hupsistos*). English: Most High | French: Très-Haut | Latin: Altissimus | Origin: עֶלְיוֹן -- Υψιστος | Vietnamese: Đấng Tối Cao -- được dùng như tên riêng của Thiên Chúa thật, -- Is 14,14 ; Tv 91,1.9 ; Lc 1,32 English: Heliodorus | French: Héliodore | Latin: Heliodorus | Origin: ՙΗλιοδωρος | Vietnamese: Hê-li-ô-đô-rô -- 2 Mcb 3,7-40 English: Heliodorus | French: Héliodore | Latin: Heliodorus | Origin: ՙΗλιοδωρος | Vietnamese: Hê-li-ô-đô-rô -- 2 Mcb 3,7-40 *Cao cả, vĩ đại* (*megistos*) là một tính từ thường được dùng cho vị thần tối cao trong ngoại giáo đông phương. English: Heliodorus | French: Héliodore | Latin: Heliodorus | Origin: ՙΗλιοδωρος | Vietnamese: Hê-li-ô-đô-rô -- 2 Mcb 3,7-40 English: Jerusalem | French: Jérusalem | Latin: Ierusalem | Origin: יְרוּשָׁלֵם | Vietnamese: Giê-ru-sa-lem -- kinh thành Thiên Chúa, thành vua Đa-vít... -- 1 V 8,44.48 Câu này là chủ đề của cả 2 Mcb. English: Heliodorus | French: Héliodore | Latin: Heliodorus | Origin: ՙΗλιοδωρος | Vietnamese: Hê-li-ô-đô-rô -- 2 Mcb 3,7-40 III. TRUYỆN QUAN HÊ-LI-Ô-ĐÔ-RÔ Quan Hê-li-ô-đô-rô đến Giê-ru-sa-lem Thành phố xáo trộn Ông Hê-li-ô-đô-rô bị trừng phạt Ông Hê-li-ô-đô-rô được ơn trở lại Xê-lêu-cô A-xi-a Si-môn Bin-ga A-pô-lô-ni-ô Thác-xê-ô A-pô-lô-ni-ô Giê-ru-sa-lem A-pô-lô-ni-ô Hê-li-ô-đô-rô Hê-li-ô-đô-rô Hê-li-ô-đô-rô Giê-ru-sa-lem Si-môn Hiếc-ca-nô Tô-bi-a Hê-li-ô-đô-rô Hê-li-ô-đô-rô Hê-li-ô-đô-rô Hê-li-ô-đô-rô Hê-li-ô-đô-rô Đấng Tối Cao Hê-li-ô-đô-rô Hê-li-ô-đô-rô Hê-li-ô-đô-rô Hê-li-ô-đô-rô Giê-ru-sa-lem Hê-li-ô-đô-rô