Phần giáo thuyết ở các ch. 3 và 4 dẫn đến những kết luận thực hành trong các ch. 5 và 6. Tín hữu là người tự do được thừa hưởng gia tài trong thành Giê-ru-sa-lem thượng giới. Tín hữu phải sống theo ơn gọi tự do của mình, không sống theo tính xác thịt, mà sống theo Thần Khí. Bởi đó, người tín hữu sống bác ái với mọi người. Khi gặp thử thách, họ không nản chí, sờn lòng, vì thập giá Đức Ki-tô nâng đỡ họ. Đức Ki-tô đang sống trong họ. [1]
Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Ga-lát đừng quay về với Lề Luật, giữ các nghi thức bên ngoài. Đức Ki-tô đã giải thoát họ khỏi mọi ách nô lệ của Lề Luật. Trở lại với Lề Luật là đoạn tuyệt với Đức Ki-tô. Người tín hữu không thể vừa làm tôi Lề Luật, vừa sống theo Thần Khí. [2]
English: Christ | French: Chist | Latin: Christus | Origin: Χριτος | Vietnamese: Ki-tô -- Mt 1,18 [3]
Sự tự do là đặc tính của con cái Thiên Chúa. [4]
Ngoài Lề Luật, các ráp-bi còn thêm 248 điều truyền và 365 điều cấm. Đó là ách nặng cho kẻ sống theo Lề Luật. [5]
English: Paul | French: Paul | Latin: Paulus | Origin: Παυλος | Vietnamese: Phao-lô -- Cv 13,9 [6]
English: Christ | French: Chist | Latin: Christus | Origin: Χριτος | Vietnamese: Ki-tô -- Mt 1,18 [7]
English: Christ | French: Chist | Latin: Christus | Origin: Χριτος | Vietnamese: Ki-tô -- Mt 1,18 [8]
Phải dứt khoát chọn lựa : Lề Luật hoặc Đức Ki-tô. [9]
English: Christ | French: Chist | Latin: Christus | Origin: Χριτος | Vietnamese: Ki-tô -- Mt 1,18 [10]
Cc. 5,5-6 nói đến ba nhân đức quy thần : đức tin chiêm ngắm thập giá (x. 3,1), là nguyên lý đời sống mới ; đức cậy hướng chúng ta về ngày hoàn tất ơn cứu chuộc (x. Rm 8,18-25) ; đức ái là nguyên tắc hành động. Thánh Thần là bảo đảm cho tự do của tín hữu. [11]
Kiểu so sánh rất quen thuộc của thánh Phao-lô (x. 1 Cr 9,24-26 ; Pl 2,16 ; 3,12-14 ; 2 Tm 4,7 ; Hr 12,1). Đời sống của tín hữu là một cuộc chạy đua. [12]
Một ít người Do-thái gieo rắc tư tưởng quay lại với Lề Luật : Sự kiện này làm hại đức tin trong cả miền Ga-lát. Men theo nghĩa xấu (x. Mt 16,6.11.12). [13]
Không rao giảng thập giá, tất nhiên không có ai chống đối, chẳng có người bội giáo, cũng không còn bách hại. [14]
Theo Đnl 23,2, những ai bị thiến, thì bị loại ra khỏi cộng đoàn dân Thiên Chúa. Câu này hàm ý châm biếm : thay vì cắt bì, những người Do-thái phá rối Hội Thánh ở Ga-lát tự thiến như các tư tế theo nghi thức tôn giáo thờ Xy-ben (x. Pl 3,2). [15]
Người tín hữu sống theo ơn Thánh Thần, thực hiện tự do của mình. Sống tự do không phải là sống phóng túng, sống theo bản năng hoặc theo cảm giác thúc đẩy. Sống tự do là để cho Thánh Thần thúc đẩy mình đến với anh em mà phục vụ. Đức tin không giảm bớt tự do, trái lại đức tin mở ra môi trường mới cho bác ái hoạt động. Bác ái là một đòi hỏi thiết yếu của tự do đích thực. [16]
Sự phục vụ Thiên Chúa đòi hỏi phải phục vụ anh em, nhất là những anh em gần gũi trong đức tin (6,10 ; x. Mt 7,12). Sống bác ái là phục vụ. [17]
ds : lời duy nhất (x. Lv 19,18). [18]
Tín hữu luôn chiến đấu giữa thiện và ác. Dầu có Thánh Thần ngự trong tâm hồn, tính xác thịt luôn nghe theo tiếng gọi xấu, kích thích những đam mê của tín hữu (x. Rm 7). [19]
Bảng liệt kê các nết xấu và tội ác có thể chia làm 4 hạng : tội xác thịt (3) tội xúc phạm đến Thiên Chúa (2), tội phạm đến anh em (8), tội phạm chính mình (2). Như vậy, thánh Phao-lô cho thấy : ta dễ phạm anh em nhiều hơn. [20]
English: Water Gate | French: Eaux (Porte des) | Latin: Aquarum (porta) | Origin: הַמָּיׅם (שַׁעַר־) | Vietnamese: Nước (cửa) -- Nkm 8,1.3 [21]
Lần duy nhất trong Ga-lát có ý niệm thừa hưởng liên quan Nước Thiên Chúa (x. 1 Cr 6,10 ; Mt 5,20 ; 7,21 ; 18,3 ; 19,23 ; 21,31 ; 22,12). Người ta được vào Nước Thiên Chúa như một ân huệ, nếu biết sống theo các đòi hỏi của Tin Mừng. [22]
Thánh Âu-tinh đã gói ghém các đức tính vào một câu : Cứ yêu mến đi, rồi bạn hãy làm những gì bạn muốn. Bác ái là tình yêu lựa chọn, tình yêu được Thánh Thần linh hứng, chứ không phải là một khuynh hướng tự phát của con người. [23]
Phải hiểu đó là luật hướng dẫn từ phía ngoài. [24]
English: Christ | French: Chist | Latin: Christus | Origin: Χριτος | Vietnamese: Ki-tô -- Mt 1,18 [25]
Nhờ chiêm ngắm thập giá và nỗ lực sống theo thập giá, người ta có thể khước từ tính xác thịt. Đây là một nguyên tắc linh đạo. [26]
Rm 6,15 [1@]
Ga 8,36 [2@]
1 Cr 5,6 [3@]
1 Pr 2,16 [4@]
Lv 19,18 b; Mt 22,39; Mc 12,33; Rm 13,9b; Gc 2,8 b [5@]
Rm 7,18-23 [6@]
Rm 1,21 [7@]
2 Cr 6,6 [8@]
2 Pr 1,7 [9@]
Rm 6,6 [10@]
Pl 2,3 [11@]